HIỆP SỐNG TIN MỪNG CN 27 TN – KÍNH TRỌNG THỂ LỄ
MÂN CÔI
Cv 1,12-14; Lc 1,26-38
VƯỢT
QUA KHÓ KHĂN THỬ THÁCH NHỜ KINH
MÂN CÔI
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN
MỪNG: Lc 1,26-38.
(c 26)
Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần
Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, (c 27) gặp
một Trinh Nữ đã đính hôn với một người tên là Giu-se, thuộc nhà
Đa-vít, Trinh Nữ ấy tên là Ma-ri-a. (c 28) Sứ thần vào nhà Trinh Nữ
và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”.
(c 29) Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có
nghĩa gì. (c 30) Sứ thần liền nói: “Thưa bà Ma-ri-a xin đừng sợ, vì
bà đẹp lòng Thiên Chúa. (c 31) Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ
một con trai và đặt tên là Giê-su. (c 32) Người sẽ nên cao cả và sẽ
được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho
Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. (c 33) Người sẽ trị vì nhà
Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”.
(c 34)
Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì
tôi không biết đến việc vợ chồng !” (c 35) Sứ thần đáp: “Thánh Thần
sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên
bà. Vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ là thánh, sẽ được gọi là Con
Thiên Chúa”. (c 36) Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy đã
già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Bà ấy vẫn bị mang
tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. (c 37) Vì đối
với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.
(c 38) Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ
của Chúa. Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Rồi sứ thần
từ biệt ra đi.
2. Ý
CHÍNH:
Câu chuyện truyền tin của sứ thần Ga-bri-el cho đức Trinh
nữ Ma-ri-a biểu lộ tình thương và sự trung tín của Thiên Chúa trong
công cuộc cứu độ loài người. Thái độ lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu
Ý Chúa và mau mắn “Xin Vâng” của Đức Ma-ri-a cũng phải là thái độ mà
các tín hữu chúng ta cần học tập nơi Mẹ khi lần chuỗi Mân Côi. Nhờ đó chúng
ta sẽ có thể hiệp cùng Mẹ xây dựng hòa bình bằng việc chiến thắng ma quỷ, tội lỗi
và các thói hư nơi bản thân mình.
3.
CHÚ THÍCH:
- (c
26) + Gáp-ri-en: là một trong bảy
Tổng Lãnh thiên thần (x. Tb 12,15), trong đó ba vị được nêu rõ tên trong
Cựu Ước là: Mi-ka-en, Ra-pha-en, và Gáp-ri-en. Tên của các vị này có
ý nghĩa phù hợp với sứ mệnh của mỗi vị như sau: Mi-ka-en nghĩa là “Ai bằng Thiên Chúa?” (Đn
12,1), Ra-pha-en nghĩa là “Thiên
Chúa chữa lành” (Tb 3,17) và Gáp-ri-en
nghĩa là “Anh hùng của Thiên Chúa” (Đn 8,16).
- (c 27) +
Trinh nữ: Từ này không xác định về đức trinh khiết của Đức Ma-ri-a,
vì trinh nữ đơn giản chỉ là một cô gái chưa lấy chồng. Sự thanh khiết của
Đức Ma-ri-a được khẳng định qua lời thưa với sứ thần: “Việc đó xảy ra
thế nào được, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1,34). Sở dĩ trinh
nữ Ma-ri-a được chọn cho thấy lời tuyên sấm của I-sai-a về một trinh nữ
thụ thai và sinh con trai là Đấng Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng
ta, đã được ứng nghiệm nơi Đức Ma-ri-a (x. Is 7,14 ; Mt 1,23). + Đã
đính hôn: Từ khi đính hôn, Giu-se và Ma-ri-a đã được luật
pháp công nhận là vợ chồng, và con cái sinh ra trong thời kỳ này
được kể là con chính thức của hai người. Tuy nhiên, theo phong tục trong
xã hội Do Thái thì việc kết hôn chỉ hoàn tất khi họ đàng trai tổ
chức lễ cưới đón rước cô dâu về nhà chồng (x. Mt 1,18). + Thuộc
nhà Đavít: Chi tiết này thêm vào nhằm chứng minh Đức Giê-su
là Đấng Cứu Thế vì theo sấm ngôn của I-sai-a thì Đấng Cứu Thế phát xuất
từ gốc là tổ phụ Giêsê cha của Đavít (x. Is 11,1) và nơi sinh của
Người là Bê-lem, quê hương của vua Đavít (x. Mk 5,1). + Ma-ri-a:
hay Mi-ry-am, là tên gọi của nhiều thiếu nữ Do thái đương thời. Để
phân biệt, người ta thường thêm một biệt danh sau tên gọi. Chẳng hạn: Ma-ri-a
Mácđala (x. Lc 8,2-3); Ma-ri-a Bê-ta-ni-a (x. Lc 10,39); Ma-ri-a mẹ Giacôbê
và Giôxép (x. Mt 27,56); Ma-ri-a vợ ông Cơlôpát (x. Ga 19,25); Ma-ri-a mẹ
Gio-an (x. Cv 12,12) và bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su (x. Cv 1,14).
- (c 28) +
“Mừng vui lên”: Đây không phải là cách chào giữa những
người dân bình thường, nhưng là lời chào đặc biệt chỉ dành cho những
người được gặp Thiên Chúa (x Dcr 9,9). + “Đầy ân sủng”: Tước
hiệu dành riêng cho Đức Ma-ri-a, một người trong sạch vẹn toàn. Ngài
đã được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên đã được Thiên Chúa ban đặc ân
Vô Nhiễm Nguyên Tội và luôn có Chúa ở cùng.
- (c 29) + “Bà
bối rối và tự hỏi”: Khác với thái độ “bối rối sợ
hãi” của Dacaria (x. Lc 1,12), ở đây Ma-ri-a chỉ ngạc nhiên và băn
khoăn về ý nghĩa của lời Chúa vừa mặc khải (x. Lc 1,34 và 2,19).
- (c 31) + Giê-su:
nghĩa là “Cứu Chúa” (x. Mt 1,21) hay “Đấng Cứu Thế” (x. Lc
2,11).
- (c 32) +
Con Đấng Tối Cao: Đây là tước hiệu thường được áp dụng cho
các ông vua dòng tộc Đa-vít. Qua câu này, sứ thần ám chỉ Đức Giê-su
là vua thuộc nhà Đavít. Người sẽ cai trị Ít-ra-en, và triều đại của
Người sẽ vững bền mãi mãi.
- (c 34) +
“Việc ấy xảy ra cách nào, vì tôi không ‘biết’ đến người nam!”: “Biết”
theo nghĩa Thánh Kinh có nghĩa là “sự giao hợp vợ chồng”.
Câu thắc mắc của Ma-ri-a không chứng minh việc Ma-ri-a đã khấn hay có
ý khấn giữ mình đồng trinh như có người lầm tưởng. Qua câu này, Ma-ri-a
chỉ thắc mắc làm sao thực hiện được việc thụ thai ngay lúc này
được, khi mà Ma-ri-a mới chỉ đính hôn để làm vợ thánh Giu-se về luật
pháp, và chưa được Giu-se tổ chức rước dâu về nhà.
- (c 35) +
Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà...”: Sứ thần
giải thích cho Ma-ri-a hiểu việc thụ thai của Ma-ri-a xảy ra do quyền
năng Thánh Thần, để ứng nghiệm lời tuyên sấm của I-sai-a: Đấng Cứu
Thế sẽ do một gái đồng trinh thụ thai và sinh ra (x. Is 7,14). +
rợp bóng: Kiểu nói nhắc lại sự kiện đã từng xảy ra
trong sa mạc, khi dân Do Thái vượt qua sa mạc để về Đất Hứa: Đức Chúa
luôn hiện diện giữa dân Người bằng cách cho cột mây “rợp bóng” che
phủ Nhà Tạm và Lều Hội Ngộ (x. Xh 40,34-38). Ngoài ra, “rợp bóng”
cũng ám chỉ sự bang trợ của Đức Chúa, giống như chim phượng hoàng
sải cánh bao phủ và che chở con dân Ítraen của Người (x. Tv 17,8).
+
“Đấng Thánh” sắp sinh ra sẽ là “thánh”: “Thánh”
nghĩa là thuộc về Thiên Chúa, được hiến “thánh” dành riêng cho Thiên
Chúa để thi hành sứ mạng cứu thế.
- (c 36) + Kìa
bà Êlisabét...: Sứ thần chứng minh quyền năng của Thiên Chúa
qua việc bà chị họ Ê-li-sa-bét, tuy đã cao tuổi và bị hiếm hoi, nhưng
đã được Thiên Chúa ban cho đặc ân thụ thai con trai và tới nay đã được
sáu tháng.
- (c 38) +“Vâng,
tôi đây là nữ tỳ của Chúa”: Khi tự nhận là “nữ tỳ của
Chúa”, Ma-ri-a biểu lộ đức khiêm nhường và lòng tin yêu sâu xa đối với
Thiên Chúa. + “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”:
Ma-ri-a đại diện nhân loại để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Thực vậy, ngay sau lời thưa “Xin Vâng”, Thánh Thần đã tác động
làm cho Ma-ri-a thụ thai, mà không cần tới việc tri giao vợ chồng (x. Lc
1,34). Rồi Ngôi Lời “đã xuống thế làm người”, nhập vào bào thai ấy
trở thành Đấng “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x.
Mt 1,23). Như vậy, Đức Giê-su chỉ có một Ngôi là “Ngôi Con”, “Ngôi Hai”
hay “Ngôi Lời” Thiên Chúa, nhưng lại có hai bản tính: vừa là Thiên
Chúa vừa là người phàm.
HỎI: Thắc
mắc của Đức Ma-ri-a và của ông Dacaria (x. Lc 1,18) có giống nhau hay
không?:
ĐÁP: Cả hai cùng đưa ra thắc
mắc, nhưng trong hai tâm trạng khác nhau: Thắc mắc của Dacaria biểu
lộ tâm trạng hoài nghi về quyền năng của Thiên Chúa, nên ông đã bị
phạt cấm khẩu không thể nói được. Sự cấm khẩu này là dấu chỉ bà
Êlisabét chắc chắn sẽ có thai cách khác thường (x. Lc 1,20). Còn lời thắc
mắc của Đức Ma-ri-a biểu lộ tâm trạng tin tưởng: Ma-ri-a muốn
tìm biết thánh ý Chúa để xin vâng. Do đó, Mẹ đã được sứ thần ca
tụng là Đấng “đầy ân sủng” vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1,30), và Mẹ đã được
bà Êlisabét khen ngợi: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện
những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).
4. CÂU HỎI: 1)
Thánh Kinh cho biết có mấy Tổng lãnh thiên thần? Các Tổng lãnh thiên
thần được nêu đích danh là những ai? Ý nghĩa của các tên gọi của các vị
ấy là gì? 2) Tại sao Thiên Chúa lại chọn Ma-ri-a đang là một “Trinh
nữ” để làm mẹ Đấng Cứu Thế? 3) Lúc thưa “Xin vâng” để được thụ thai
Đấng Cứu Thế do quyền năng Chúa Thánh Thần, Đức Ma-ri-a đã kết hôn
với thánh Giu-se chưa? 4) Câu thắc mắc của Đức Ma-ri-a khác với thắc
mắc của ông Gia-ca-ri-a ra sao? 5) Sứ thần muốn nói gì qua câu: ”Quyền
năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà”?
II.SỐNG
LỜI CHÚA:
1.
LỜI CHÚA: “Vâng, tôi đây là
nữ tỳ của Chúa. Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc
1,38).
2. CÂU
CHUYỆN:
1)
KINH MÂN CÔI MANG LẠI BÌNH AN CHO HỘI THÁNH:
- Vào thế kỷ 13, ở miền
Nam nước Pháp đã xuất hiện lạc thuyết An-bi-gioa (Albigeois). Nhờ tràng chuỗi
Mân côi do Đức Mẹ trao ban, nên sau một thời gian, thánh Đa-minh đã đưa được 150.000
người theo lạc giáo trở về cùng Hội Thánh Công giáo.
- Thế kỷ 16, đạo Tin
lành do linh mục LU-TƠ (Lu-ther) khởi xướng đã nổi lên mạnh mẽ và nhờ sự hỗ trợ
của các lãnh chúa mà đạo Tin Lành lan tràn đi khắp các nước Âu châu. Nhưng dân
thành Lu-xem-bourg vẫn trung thành với Hội Thánh Công giáo. Một hôm rất đông
người dân trong thành phố đã được mời tới nhà thờ để nghe một vị mục sư Tin
lành nổi tiếng giảng thuyết. Khi vị mục sư bước lên tòa giảng trong nhà thờ, thì
một giáo dân đã xướng kinh Mân côi và tất cả nhà thờ đều lần hạt to tiếng, khiến
vị mục sư không thể bắt đầu buổi giảng. Cuối cùng ông đành phải bước xuống tòa
giảng và rời nhà thờ. Chính nhờ kinh Mân Côi mà thành Lu-xem-bourg đã giữ vững được
đức tin công giáo.
- Năm 1571, vua Thổ đã
điều hằng ngàn chiến thuyền đi xâm chiếm các nước Âu Châu. Viên tướng chỉ huy đạo quân bách chiến bách thắng
đã ngạo mạn đe dọa sẽ biến thành Rôma nước Ý và là thủ đô của đạo công giáo biến
thành một cái chuồng ngưa. Bấy giờ Đức Giáo Hoàng Pi-ô V một mặt kêu gọi các
vua Âu châu đoàn kết chống đỡ, thành lập một đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha để ra
tiền tuyến nghênh địch, mặt khác ngài cũng kêu gọi mọi người công giáo Âu châu
siêng năng lần hạt Mân Côi để xin Mẹ Ma-ri-a phù giúp.
Cuộc chiến tàn khốc đã
diễn ra tại vịnh Lé-pan-te vào ngày 07 tháng 10. Tuy quân số ít oi ô hợp và vũ khí
thô sơ, nhưng đạo quân thánh giá đã chiến thắng vẻ vang, chặn đứng được đà tiến
của 10 ngàn chiến thuyền của quân Hồi Hồi được trang bị vũ khí hùng hậu. Từ Ro-ma,
khi nghe tin chiến thắng, Đức Pi-ô V đã kêu gọi mọi người trong giáo triều đang
hiện diện cùng nhau dâng lời tạ ơn Chúa, vì chính nhờ lời cầu bầu đắc lực của Mẹ
Mân Côi mà Hội Thánh đã thoát khỏi cơn đại nạn bị tiêu diệt. Sau đó, Đức Pi-ô V
cũng đã truyền thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi vào ngày 7 tháng 10 hằng năm để
tỏ lòng biết ơn Chúa và ghi nhớ biến cố lịch sử này.
- Trước năm 1917, nước Bồ
Đào Nha ở vào tình trạng bị suy thoái nặng nề về đức tin. Hội Thánh Công giáo
đã bị bè phái Tam Điểm bách hại. Một số nhà thờ bị phá hủy, nhiều linh mục và
tu sĩ bị chính quyền theo phái Tam Điểm bắt bớ, rất nhiều hội đoàn nổi lên chống
đối Hội Thánh. Thế nhưng từ khi Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ em tại làng Fa-ti-ma,
kêu gọi thực thi ba mệnh lệnh, trong đó chủ yếu là siêng năng lần hạt Mân Côi,
thì Hội Thánh tại Bồ Đào Nha đã dần được bình an. Rất nhiều hoạt động cổ võ việc
lần hạt Mân Côi đã xuất hiện để xin Mẹ Thiên Chúa cầu bầu cho quê hương đất nước.
Từ đó đến nay Bồ Đào Nha trở thành cái nôi của kinh Mân Côi.
Các biến cố nói trên
cho thấy phép lần hạt Mân Côi chính là một phương thế hữu hiệu mang lại sự bình
an cho Hội Thánh và cho mọi tín hữu. Mỗi lần hiện ra tại Lộ Đức (Pháp) hay tại
Fa-ti-ma (Bồ đào nha), Đức Mẹ đều kêu gọi mọi người hãy siêng năng lần hạt Mân
Côi. Ở đâu người ta siêng năng lần hạt Mân Côi thì ở đó Hội Thánh sẽ được bình an.
Các gia đình nào năng đọc kinh Mân Côi trong giờ kinh tối gia đình, thì gia
đình đó sẽ được an hòa hạnh phúc.
2) ĐẾN VỚI CHÚA GIÊ-SU
NHỜ MẸ MA-RI-A (AD JE-SUM
PER MA-RI-AM):
Vào một buổi chiều đông lạnh giá, PHUN-TƠN (FULTON OURSLER), một tín hữu đã bị
mất đức tin và bỏ đến nhà thờ trong nhiều năm, bấy giờ đang trong tâm
trạng tuyệt vọng vì gặp phải quá nhiều vấn đề khó khăn nan giải. Khi
đi ngang qua đại lộ nơi có Nhà Thờ Chính Toà của thành phố Nữu Ước, tự
nhiên ông cảm thấy như có một sức mạnh vô hình đã lôi cuốn ông đi vào
nhà thờ và đẩy ông đến quỳ gối trước tượng Đức Mẹ. Sau một lát im
lặng, Phun-tơn tự nhiên thốt ra một lời cầu nguyện như sau: “Lạy Mẹ Ma-ri-a,
có thể chỉ một lát nữa thôi là con sẽ lại đổi ý để tiếp tục bài
bác chế diễu các việc đạo đức con đang làm, và trở lại con đường vô
tín như cũ. Nhưng bây giờ con cảm thấy tâm hồn thật bình an, dù con
đang gặp muôn vàn khó khăn nan giải. Xin Mẹ cầu cùng Chúa Giê-su ban thêm
đức tin cho con”. Ngay lúc đó Phun-tơn cảm thấy một điều lạ lùng kỳ
diệu đã xảy ra nơi bản thân, biến ông trở thành một con người mới: Ông
đã có lại đức tin và sau đó đã từng bước hóa giải được mọi vấn đề khó khăn gặp
phải! Từ đây, ông luôn sống kết hiệp với Mẹ Ma-ri-a để làm chứng cho
Chúa Giê-su bằng một lối sống khiêm nhường, cậy trông phó thác và đầy
vị tha bác ái. Chính nhờ Mẹ mà Phun-tơn đã đến được với Chúa Giê-su.
3) ĐỨC TIN GẮN LIỀN VỚI KINH MÂN CÔI:
Trên một chuyến xe lửa
về Pa-ris, một anh sinh viên trẻ tuổi ngồi bên một cụ già. Chỉ ít phút sau khi
đoàn tàu chuyển bánh, anh thấy cụ già rút từ trong túi áo ra một tràng chuỗi
mân côi và từ từ chìm đắm trong lời cầu nguyện. Chàng sinh viên quan sát cử chỉ
của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, khi cụ già đã đọc kinh xong, chàng ta
liền lên tiếng:
- Thưa ông, nếu cháu không
lầm thì ông vẫn còn tin vào những chuyện tôn giaó nhảm nhí ấy chứ?
Cụ già bình tĩnh trả lời:
- Đúng thế, tôi vẫn
tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Chàng sinh viên nở một
nụ cười ngạo mạn và nói:
- Lúc còn nhỏ cháu có tin,
nhưng bây giờ sau khi đã học lên đại học, cháu làm sao còn tin được những chuyện
nhảm nhí ấy nữa. Khoa học đã thực sự mở mắt cho cháu. Ông cứ tin cháu đi, hãy
quăng chuỗi tràng hạt kia đi, và hãy học để biết thêm những khám phá mới. Ông sẽ
thấy rằng những gì ông đã tin từ trước đến giờ đều chỉ là mê tín cả.
Cụ gìa bình tĩnh hỏi chàng
sinh viên:
- Cậu vừa nói về những
khám phá mới của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được điều nầy không?
Chàng sinh viên liền hăng
hái đề nghị:
- Ông cứ cho cháu biết địa
chỉ của ông, cháu sẽ gởi đến cho ông những quyển sách mới. Ông sẽ tha hồ đi vào
thế giới của khoa học.
Cụ già từ từ rút trong
túi áo ra một tấm danh thiếp và trao cho chàng sinh viên. Vừa đọc qua danh thiếp,
anh chàng liền tái mặt vì xấu hổ, anh lặng lẽ đi sang toa tàu khác. Bởi vì trên
tấm danh thiếp của cụ già có ghi hàng chữ: “Louis Pasteur - viện nghiên cứu
khoa học Paris”.
4) KHI GẶP NGUY KHỐN HÃY ĐỌC KINH MÂN CÔI ĐỂ ĐƯỢC MẸ CỨU GIÚP:
a) Năm
1507, ông VA-LEN-TI-NÔ bị một bọn cướp
bắt cóc tống tiền. Chúng đã xiềng chân và xích tay ông, rồi giam ông trong một
ngọn tháp cao tối tăm hôi hám. Trong hoàn cảnh bi đát ấy, Va-len-ti-nô và gia
đình ở nhà luôn tin cậy lần hạt Mân Côi kính Đức Mẹ. Rồi một ngày kia, sau khi
đọc kinh Mân Côi, ông vô cùng bỡ ngỡ khi thấy xiềng xích chân tay đều tự bung ra.
Bấy giờ ông đã lần mò trong bóng tối, gõ tay vào tường của cây tháp, đến một chỗ
ông chỉ nghe bục bục. Ông đẩy mạnh và viên đá đã nhúc nhích. Ông vội cậy viên
đá ra và đã tìm được lối thoát ra ngoài bình an. Phải chăng chính Đức Mẹ đã cầu
cùng Chúa ra tay giải thoát ông.
b) Kinh
Mân côi không phải chỉ cứu người ta về phần thể xác, mà còn cứu chữa về phần hồn
nữa: HÉ-LÈ-NE là một nàng kỹ nữ đã
làm cho bao nhiêu người đàn ông phải chết mê chết mệt. Ngày kia nàng ta đã theo
một người bạn vào bên trong một nhà thờ, gặp ngay lúc vị linh mục đang giảng về
hiệu lực của kinh Mân côi. Trở về nhà, nàng nhờ người mua một cỗ tràng hạt, và âm
thầm lần hạt mỗi ngày vì sợ bị cười nhạo. Ít lâu sau, nàng được Chúa ban ơn
bình an mỗi khi lần hạt. Sau đó, nàng còn được Chúa ban ơn ăn năn sám hối, tình
nguyện dâng mình cho Đức Mẹ, và đã sống một cuộc sống thánh thiện cho đến chết.
c) Một
bà nọ thuộc hàng quí tộc, một hôm bị bệnh nặng hấp hối gần chết. Người nhà liền
đến mời đức cha DU-PAN-LOUP đến thăm
và ban các bí tích sau hết. Sau khi hoàn tất, bệnh nhân đã bình thản hỏi: “Thưa
Đức cha, liệu con có được ơn cứu độ không?”- “Cha hy vọng là được”. Bấy giờ bệnh
nhân liền nói cách xác tín: “Phần con, con tin chắc con sẽ được hưởng ơn cứu độ
của Chúa”. Đức cha ngạc nhiên hỏi lại: “Sao con lại tin chắc như thế?” Bệnh
nhân trả lời: “Thưa Đức cha, từ ngày còn bé đến nay, mỗi ngày con đều lần hạt
Mân Côi, trong kinh Kính Mừng có lời cầu xin Mẹ Thiên Chúa thương cứu con khi
nay và trong giờ lâm tử. Lẽ nào bây giờ lúc con sắp chết Mẹ lại ngoảnh mặt không
cầu cùng Chúa cho con được ơn cứu độ?”.
3.
THẢO LUẬN: 1) Noi
gương Thánh Mẫu Ma-ri-a xưa, mỗi tín hữu chúng ta cần làm gì để có thể
thưa “Xin Vâng” thánh ý Thiên Chúa, dù gặp nhiều tai nạn, rủi ro, thất
bại hay những điều trái ý cực lòng? 2) Bạn nên làm gì để động viên
người khác cũng xin vâng ý Chúa khi gặp điều rủi ro như: thi rớt đại
học, người thân mới qua đời, gặp tai nạn giao thông phải nằm bệnh viện,
làm ăn thua lỗ thất bại...?
4. SUY
NIỆM:
Hôm nay là Lễ Đức Mẹ
Mân Côi, chúng ta vừa nghe Tin Mừng Lu-ca (Lc 1,26-38) kể lại sự việc sứ thần Gáp-ri-en
hiện đến truyền tin cho Trinh Nữ Ma-ri-a. Câu chuyện này cho chúng ta thấy tình
thương và sự trung tín của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ loài người.
Thái độ lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu Ý Chúa và mau mắn “Xin Vâng”
của Trinh Nữ Ma-ri-a chính là thái độ mà Hội Thánh muốn các tín hữu chúng
ta thực hiện khi đọc kinh Mân Côi noi gương Đức Mẹ. Vậy Cấu trúc của kinh Mân
Côi là gì? Cần có tâm tình nào khi đọc kinh Mân Côi? Kinh Mân Côi mang lại hiệu
quả thế nào?
1) VỀ
CẤU TRÚC CỦA KINH MÂN CÔI:
Kinh Mân Côi gồm hai phần
là miệng đọc kinh và lòng suy niệm các mầu nhiệm:
a) Phần kinh đọc:
- Kinh
Lạy Cha do Chúa Giê-su đã dạy các môn đệ cầu nguyện với Thiên Chúa Cha.
- Kinh
Kính mừng phần đầu là lời thiên sứ Gáp-ri-en (x. Lc 1,28) và lời bà Isave chào
chúc Đức Mẹ (x Lc 1,41-42). Phần sau ”Thánh Ma-ri-a Đức Mẹ Chúa Trời…” là do Đức
Piô V cho thêm vào kinh Kính Mừng năm 1569.
- Kinh
Sáng Danh là lời ca tụng Ba Ngôi Thiên Chúa cũng được Đức Piô V thêm vào.
b) Phần suy niệm: Suy ngắm các mầu nhiệm cuộc đời
Chúa Giê-su và Đức Mẹ.
- Đầu
tiên chỉ có 15 mầu nhiệm chia thành 3 phần là năm sự Vui, năm sự Thương, năm sự
Mừng. Gần đây Đức Gio-an Phao-lô II thêm 5 sự Sáng là những sự kiện xảy ra
trong thời gian Chúa Giê-su đi giảng đạo.
- Nếu
đọc kinh Mân côi mà không suy niệm các mầu nhiệm kèm theo thì giống như con người
chỉ là xác mà không có hồn. Đức Mẹ Fatima dạy: "Phải đọc kinh Mân côi và
suy ngắm các mầu nhiệm".
2) THEO GƯƠNG ĐỨC MA-RI-A:
Điểm quan
trọng mà Hội Thánh muốn các tín hữu noi gương Đức Mẹ trong lễ Mân Côi là thái độ
cậy trông, phó thác và vâng phục thánh ý Thiên Chúa như sau:
- “Xin vâng”:
Trái với sự kiêu ngạo, không vâng lời Thiên Chúa của bà Evà khi kết hợp với ông
Ađam trong vườn địa đàng khi xưa, Đức Ma-ri-a là Evà Mới thời Tân Ước đã cộng
tác với Ađam Mới là Chúa Giê-su để lắng nghe Lời Chúa, khiêm tốn tìm hiểu thánh
ý Thiên Chúa và cúi đầu “Xin Vâng”. Ngay sau lời thưa này, Chúa Thánh Thần đã
tác động làm cho Đức Ma-ri-a thụ thai, như kinh Truyền Tin: “Chốc ấy Ngôi Thứ
Hai xuống thế làm người, và ở cùng chúng tôi”. Từ đây, Đức Ma-ri-a hằng ghi
nhớ các sự việc đã xảy ra và “suy đi nghĩ lại trong lòng” (x. Lc 2,19). Ngay
sau khi thụ thai Mẹ đã lập tức đem Thai Nhi Cứu Thế đến thăm gia đình Giacaria,
làm cho thai nhi Gio-an mới 6 tháng tuổi đã nhảy mừng trong lòng mẹ là bà Isave
(x. Lc 1,41). Nhất là Mẹ còn thể hiện sự “xin vâng” khi đứng dưới chân thập giá
để hiệp dâng người Con yêu là Chúa Giê-su lên cho Thiên Chúa hầu góp phần cứu độ
loài người.
- Phó thác: Qua biến cố truyền tin, chúng
ta cũng noi gương Mẹ để biết cậy trông phó thác mọi sự trong tay Chúa quan
phòng. Ngày nay việc giúp những người vô tín nhận biết Thiên Chúa, cũng
như giúp các tội nhân bỏ các thói hư và xóa bỏ khỏi môi trường sống các tệ
nạn xã hội như sì-ke ma túy, cờ bạc đĩ điếm, lừa đảo cướp giật...
không dễ thực hiện, nhưng cũng không khó đối với Thiên Chúa, vì: “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc
1,37). Vậy để việc tông đồ truyền giáo đạt kết quả, chúng ta cần noi
gương Mẹ Ma-ri-a năng cầu nguyện với Chúa Giê-su và làm theo lời Người dạy, như
Mẹ đã yêu cầu các người giúp việc trong tiệc cưới Ca-na vâng lời Chúa Giê-su:
“Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,3-5).
- Tạ ơn Chúa vì “Tất cả đều là hồng ân”:
Khi gặp điều may lành, chúng ta dễ dàng tạ ơn Chúa. Nhưng ngay cả những
lúc gặp cơn gian nan thử thách, chúng ta cũng phải sẵn sàng thưa “Xin
Vâng”, vì biết rằng: mọi sự Chúa để xảy ra đều có ích cho phần rỗi đời
đời của chúng ta. Vì Chúa có thể “rút từ sự dữ ra sự lành”, Ngài không bao giờ
triệt đường của chúng ta như người ta thường nói: “Chúa đóng cửa chính, nhưng lại
mở cửa sổ” và lời thánh Phao-lô dạy: “Tất
cả đều là hồng ân” (x. 1 Cr 15,10).
3) NỮ VƯƠNG BAN SỰ BÌNH
AN:
Mừng lễ
Đức Mẹ Mân Côi hôm nay, chúng ta khẳng định
có một mối liên hệ sâu xa giữa hai tước hiệu của Mẹ là “Nữ Vương Rất Thánh Mân
Côi” và “Nữ Vương Ban Sự Bình An”. Qua đó chúng ta rút ra bài học: muốn sống
trong bình an, người ta không thể xao lãng việc lần hạt Mân Côi.
Kinh
Mân Côi chính là một khí cụ mang lại ích lợi cho mọi thành phần dân Chúa: Ai yếu
đuối, Kinh Mân Côi sẽ đem lại sức mạnh tinh thần; Ai đang sống trong tội lỗi,
Kinh Mân Côi sẽ giúp họ nhận được ơn tha thứ của Chúa; Ai đang gặp phải rủi ro bất
hạnh, Kinh Mân Côi sẽ giúp họ tìm ra phương thế đạt được hạnh phúc; Ai đang khô
khan nguội lạnh, Kinh Mân Côi sẽ giúp ánh lửa tin yêu còn ẩn giấu trong lòng họ
sẽ được bùng lên thành ngọn lửa tin yêu Chúa... Vì kinh Mân Côi chính là phương
thế Chúa ban qua lời Mẹ cầu bầu, để mang lại niềm vui, sự bình an và hạnh phúc
đến cho loài người.
5.
LỜI CẦU:
Lạy Mẹ Mân Côi, “Nữ
Vương Hòa Bình”, xin giúp chúng con biết siêng năng lần hạt Mân Côi. Nhờ đó,
chúng con sẽ cộng tác với Mẹ xây dựng hòa bình và tích cực góp phần cứu độ thế
giới, bắt đầu từ bản thân, rồi đến gia đình, khu xóm, giáo xứ, đất nước và ra đến
toàn thể nhân loại. Xin cho chúng con trở thành khí cụ bình an của Chúa để hiệp
cùng Mẹ, mỗi ngày chúng con sẽ cải tạo môi trường sống ngày càng an toàn sạch đẹp
hơn, công bình nhân ái hơn, hầu Nước Trời bình an hạnh phúc sẽ sớm xuất hiện
theo thánh ý Thiên Chúa.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN
CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM